Tinh thần nhân quả của đạo Phật không phải gây nhân nào chịu quả ấy trọn vẹn, ngoại trừ người không biết tu thì nhân quả không sai khác. Còn với người biết tu thì nhân quả biến chuyển theo công phu tu hành cao thấp mà có sai khác. Tu là chuyển Nghiệp giảm hết phiền não khổ đau để được an vui hạnh phúc, đó là tu đúng theo lời Phật dạy. Nếu tu sai thì không chuyển được nghiệp nên phiền lụy cứ dai dẳng khổ đau không đứt trừ, lại còn thối chí tu tập, không được lợi ích gì cả.
[Kinh A Hàm Phật có dạy: Người gây nhân bất thiện, trước hoặc sau họ biết tu thân, tu giới, tu tâm thì quả sẽ đổi thay. Nếu người gây nhân bất thiện mà không biết tu thân, tu giới, tu tâm thì gây nhân nào sẽ thọ quả nấy. Đó là nhân nào quả nấy và gây nhân mà biết chuyển nghiệp thì quả cũng đổi thay.
Phật có ví dụ một nắm muối nếu hòa tan trong tô nước lạnh thì tô nước ấy mặn không uống được. Cũng nắm muối đó, nếu hòa tan trong lu nước lớn dung lượng độ vài ba trăm lít thì nước trong lu sẽ uống được, nhưng vị nước hơi mẳn mẳn. Và nếu nắm muối đó hòa tan trong một hồ nước dung tích bốn năm ngàn lít, nước không còn mặn, dùng xài bình thường.
Nhân bất thiện là dụ cho vị mặn của nắm muối hòa tan trong tô nước thì quả cũng mặn không giải khát được. Nếu nhân mặn của mắm muối hòa tan trong lu nước thì quả mặn loãng ra, nước có thể tạm giải khát được. Nếu nhân mặn của mắm muối hòa tan trong hồ nước lớn, thì quả mặn không thấm vào đâu, nước dùng xài bình thường….]
Đức Phật đưa ví dụ này quá hay. Ai hiểu được thì không còn gì để cần phải giải thích về Nghiệp Quả nữa!
[…. Tu giới là Phật tử tại gia, sau khi Quy y rồi, Phật dạy phải giữ năm giới:
1/ Không sát sanh: Là không được giết người. Vì ai cũng muốn sống thì mạng sống phải được tôn trọng, không nên giết mạng sống của người. Nếu giết mạng sống của người thì bị luật pháp trừng trị. Vì tôn trọng mạng sống của mình nên phải tôn trọng mạng sống của người. Đó là lẽ công bằng, trái với lẽ công bằng là tội lỗi.
Ngoài ra, đối với những con vật lớn như trâu, bò, heo, chó tránh được bao nhiêu là tốt bấy nhiêu. Chủ yếu là không giết người.
Một là tự tay mình giết. Ví dụ mình oán thù ai thì tự mình đến giết người đó chết.
Hai là sai bảo người khác giết. Ví dụ mình oán thù người nào, mình không trực tiếp giết được bèn xúi bảo hay mướn người khác giết.
Ba là hoan hỷ khi nghe thấy giết. Ví dụ mình oán thù người nào đó tự mình không giết được, khi thấy nghe người đó bị giết, mình vui mừng thích thú.
Như thế là phạm tội sát sanh. Vì tự tay giết là thân tạo nghiệp ác. Sai bảo người giết là miệng tạo nghiệp ác. Nghe thấy người giết sanh tâm vui mừng là ý tạo nghiệp ác. Nên Phật cấm không cho Phật tử làm.
2/ Không được trộm cướp: Phàm của cải của người khác, chẳng được không cho mà lấy từ một cây kim, một ngọn cỏ cũng vậy, tất cả các vật chẳng được không cho mà lấy. Hoặc trộm lấy, hoặc cướp giật, hoặc lừa gạt mà lấy, cho đến trốn xâu lậu thuế cũng đều gọi là trộm cắp.
3/ Không tà dâm: Người Phật tử sau khi lập gia đình có đôi bạn rồi mà mình còn đi ngoại tình với người khác là phạm tội tà dâm. Vì đó là duyên cớ làm cho gia đình mất hạnh phúc, làm cho gia đình tan vỡ, là cái nhân gây đau khổ cho mình cho người, vì vậy mà Phật cấm.
4/ Không nói dối: Nói dối có bốn trường hợp phạm tội.
a) Chuyện có nói không, chuyện không nói có, cốt lừa gạt để lấy tiền lấy của người.
b) Nổi giận nói lời hung dữ, thô ác mắng chửi người, vu oan người.
c) Dùng lời hoa mỹ văn chương thêu dệt để lừa gạt người.
d) Nói đâm thọc làm cho đôi bên bất hòa thù oán nhau.
Đó là những trường hợp nói dối thì phạm tội. Nếu nói dối để cười cho vui, hoặc để trấn an người bệnh người khổ, hoặc để cứu mạng người thì không phạm.
5/ Không uống rượu: Nói đơn giản là rượu, ngoài ra các thứ như á phiện, xì ke, ma túy đều không được dùng. Vì nó là cái nhân sinh ra bệnh hoạn, làm cho tiêu tán tài sản, mất hết trí tuệ. Nhưng nếu vì lý do đau bệnh, cần phải uống thuốc rượu để trị bệnh thì được phép uống….]
Chỉ có giới thứ 5 thì cần nói rõ thêm một tí. Như tôi bệnh tiểu đường, người ta có những toa thuốc ăn trứng gà có trống ngâm dấm, hoặc những toa thuốc có ngâm rượu… thì nhất định không dùng. Cho dù mình có hết bệnh cũng không làm. Bởi nếu mình lành mạnh mà làm tổn hại chúng sinh hay dính đến rượu hay chất nghiện cũng không dùng. Đã là bệnh Nghiệp là do Nghiệp mà bệnh, giờ lại tạo thêm nghiệp làm sao tốt được?
[… Nói nhân nào quả nấy là chưa chính xác, chưa lột lý nhân quả, vì chỉ đúng một trường hợp là người không biết tu, còn đối với người biết tu thì không đúng.
Tới đây, tôi xin đi xa một chút là trình bày lý nhân quả theo tinh thần thiền tông. Trong “Chứng Đạo Ca” của Thiền Sư Huyền Giác có hai câu:
Liễu, tức nghiệp chướng bổn lai không,
Vị liễu, ưng tu hoàn túc trái.
Nếu liễu ngộ thì Nghiệp chướng xưa nay là không, còn nếu chưa liễu ngộ thì phải đền nợ trước. Những nhân ác, những Nghiệp bất thiện đã gây tạo từ trước, nếu tu hành không liễu ngộ thì phải trả đủ. Còn nếu tu mà liễu ngộ được thì Nghiệp chướng cũ theo đó mà hóa giải không còn….]
Ngài Huyền Sách nói khi liễu ngộ thì thấy Nghiệp Chướng xưa nay là Không vì nó Bất Sinh chứ không phải là Nghiệp vốn không có hay không còn.
[… Sau có một thiền khách tên Hạo Nguyệt đến Thiền Sư Trường Sa Cảnh Sầm hỏi rằng:
– Cổ Đức có nói: “Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không; vị liễu ưng tu hoàn túc trái”. Như Tổ Sư Tử và Tổ Huệ Khả vì sao lại đền nợ trước?
Trường Sa bảo:
– Đại đức chẳng biết bổn lai không.
Hạo Nguyệt hỏi:
– Thế nào là bổn lai không?
– Nghiệp chướng.
– Thế nào là nghiệp chướng?
– Bổn lai không.
Tại sao nói nghiệp chướng bổn lai không?…]
Vì đối với Phật Tánh thì xưa nay vốn Bất Sinh, vốn vẫn vậy, không có tạo ra hay xóa bỏ đi… Ví như Hư Không, khi một lục địa bị sụp xuống hay trồi lên thì hư không vẫn y nguyên như vậy không hề có chút thay đổi gì cả vì tất cả đều nằm trong hư không. Cũng như Nghiệp Chướng đến đi tất cả đều nằm trong Phật Tánh nên các Ngài liễu ngộ Phật Tánh thì thấy nó không vì nó vốn không bị chút tác động nào cả. Chứ không phải là không có trả nghiệp, mọi người nên hiểu chỗ này cho rõ.
[… Theo Phật giáo thì nghiệp là động lực chi phối đời sống con người từ đời trước cho tới đời này và mãi về sau. Nếu con người còn tạo nghiệp thì còn trôi lăn trong vòng luân hồi sanh tử. Song, dùng trí quan sát cho kỹ thì nghiệp không thật. Ví dụ ông A nói lời hung ác (khẩu nghiệp) làm cho ông B buồn giận, sau ông A hối hận ăn năn xin lỗi ông B, ông B vui vẻ tha thứ. Khẩu nghiệp ác của ông A trước làm cho ông B buồn giận sau hối hận xin lỗi thì ông B hết buồn giận. Như vậy, nghiệp ác thật thì không đổ được, vì nó không thật nên chuyển được. Nghiệp còn là khi tâm chúng ta mê, nếu biết thức tỉnh chuyển nó thì nó hết, nên nói nghiệp vốn không thật. Tuy không thật, nhưng nếu chúng ta mê thì nó kéo đi mãi trong vòng luân hồi sanh tử không dừng…]
Như đã nói ở trên Nghiệp là có thật, vì rõ ràng là A chửi mắng B thì có lúc B chửi mắng A, nhưng sự khác biệt là B chưa liễu ngộ nên tức giận, còn A liễu ngộ nên không tức giận. Chứ không phải là hai bên không có chửi mắng. Chẳng qua Phật Tánh cũng như hư không, chửi mắng ở trong Phật Tánh nên người sống với Phật Tánh thì nó ở bên trong nên thấy nó Không.
[… Đã nói “Nghiệp chướng bổn lai không” tại sao Tổ Sư Tử bị hành hình, Tổ Huệ Khả chết trong tù? Trong kinh, Phật nói có nhân là có quả, nhưng quả đến còn tùy theo sức tu cao thấp mà chuyển. Tổ Sư Tử khi tới nước Kế Tân giáo hóa, bị ngoại đạo sàm tấu Ngài truyền bá tà đạo nên vua tức giận đích thân cầm gươm đến chỗ ngài hỏi:
– Thầy được không tướng chưa?
– Đã được.
– Đã được thì còn sợ chết chăng?
– Đã lìa sống chết thì đâu có sợ.
– Chẳng sợ thì có thể cho trẫm cái đầu chăng?
– Thân chẳng phải của ta, huống nữa là cái đầu.
Vua liền chặt đầu ngài rơi xuống đất.
Với con mắt phàm phu thì thấy ngài bị trả quả chặt đầu. Nhưng dưới con mắt liễu ngộ của ngài thì thấy năm uẩn là không thật, năm uẩn còn mất là trò chơi, nên Ngài không tiếc cái đầu thì có gì gọi là trả? Sở dĩ chúng ta thấy ngài trả nghiệp là vì chúng ta chưa liễu ngộ còn thấy năm uẩn thật.
Tổ Huệ Khả cũng vậy, khi Ngài ngộ đạo ở Tổ Bồ Đề Đạt Ma, sau Ngài truyền tâm ấn cho Tổ Tăng Xán. Ngài nói:”Ta còn chút duyên để đi trong nhân gian”. Rồi Ngài Đến giáo hóa ở một vùng nọ cũng bị người sàm tấu Ngài là người truyền đạo không đúng Chánh Pháp, quan địa phương bắt giam Ngài. Khi bị giam trong khám, Ngài chỉ cười mà không buồn. Ngài nói duyên ta hết ở đây, rồi Ngài tịch ở trong khám.
Đối với chúng ta khi bị nhốt trong khám, thấy đó là một hình phạt rất khổ đau, nhưng đối với Ngài, Ngài không thấy có những sự kiện bực bội, đớn đau, nên Ngài cười. Như vậy, ở tù mà không thấy ở tù, chết trong khám mà không thấy chết trong khám, đó là do Ngài liễu đạo. Cái quả mà chúng ta thấy Ngài trả, nhưng đối với Ngài thì không có trả.
Tôi lấy một ví dụ thực tế cho dễ hiểu, ông Tần thuở xưa chửi bới làm ông Tấn tức giận. Nhưng vì ông Tấn yếu thế nên ôm hận không dám trả lời. Sau ông Tấn có cơ hội trả thù ông Tần, ông Tần đã biết tu và ngộ đạo, khi bị ông Tấn chửi, ông Tần chì cười mà không giận. Hồi xưa ông chửi thì ông Tấn giận, nay ông Tấn chửi thì ông Tần cười. Vậy ông Tần có trả quả không? Người không tu thấy ông Tần bị chửi, cho là ông Tần trả quả. Nhưng với ông Tần là người liễu đạo, nghe tiếng chửi như gió thoảng ngoài tai, qua rồi thì mất, nên cười mà không buồn. Vậy, dù cho nghiệp chướng xảy ra người đời thấy kinh hoàng khủng khiếp nên thấy có trả, nhưng đối với người liễu đạo thì không có giá trị, nến thấy không có trả.
Thế nên, chư Tổ không thấy trả nghiệp mà người phàm tục thì thấy có trả nghiệp. Để thấy, chúng ta tu từ thấp là giữ năm giới, thân không làm ác là đã chuyển được bao nhiêu thứ khổ đau rồi. Nếu tu tiến hơn nữa là bỏ tham lam, sân hận, si mê, tham sân si càng ít, tâm càng trong sáng, càng thanh thoát, do đó mà được an vui. Và nếu tu tới chỗ viên mãn thì mọi nghiệp chướng đối với mình coi như không có; nếu không bị nghiệp chi phối làm cho đau khổ thì không giải thoát là gì?…]
Đúng là tu để giải thoát ra khỏi những nút thắt trong lòng. Nếu còn bị nó làm bực tức, đau khổ thì đâu có cách gì thoát khỏi sinh tử luân hồi!
Như đã mấy lần nói ở trên đối với Tâm Phật thì không thấy có trả Nghiệp, chứ không phải Nghiệp Quả là không có. Giống như bạn thấy trả Nghiệp là 1 triệu nặng hay nhiều quá nếu như bạn nghèo trí tuệ, nhưng nếu bạn có hàng tỷ trí tuệ thì bạn có trả 100 triệu cũng chả để ý huống nữa chỉ 1 triệu…
Cho dù là trả bằng thân mạng đi nữa, bởi vì bạn biết rõ mình sống vô lượng tỷ kiếp mà có nhiều kiếp bạn sống vài chục hay vài trăm ngàn năm… còn trong cõi người chỉ có trăm năm… Chỉ khoảng trăm ngày so với nhiều thế giới, khác nào trong bạn có vài ngàn tỷ cho dù trả vài tỷ thì cũng chỉ là 1 hạt muối bỏ sông.
[… Hiện nay có một số Phật tử mê tín quan niệm sai lầm, cho rằng tụng kinh Kim Cang, tụng kinh Pháp Hoa đổ nghiệp, do tu do tụng kinh nên xảy ra nhiều tai nạn… Vậy nghiệp đó đổ bằng cách nào? Do tụng kinh Nghiệp nó tràn ra, hay do xưa kia tạo nhiều Nghiệp ác bậy giờ đổ bớt đi? Đã là Phật tử tại sao không tìm hiểu Nghiệp đổ bằng cách nào, mà chỉ nghe nói đổ Nghiệp là không dám tụng kinh nữa. Học đạo như vậy quá sai lầm, tu là để chuyển Nghiệp, giảm Nghiệp, chuyển và giảm không có nghĩa là thêm, là đổ ra.
Nếu xưa kia tạo Nghiệp ác, đáng lý trả bằng sự đánh đập, hoặc trả bằng tai nạn mất nhân mạng, nhưng nhờ biết tu nên chỉ bị mắng chửi hay bị trộm cắp mất tiền của. Khi bị mắng chửi hay mất tiền của nên quán xét: có thể Nghiệp chướng của mình phải trả bằng tai nạn nặng nề khổ đau hơn nhiều, nhờ biết tụng kinh nên được chuyển nghiệp chỉ bị mắng chửi mất tiền của thì quá tốt. Xét như vậy, thì sự tu học mới tiến bộ, ngược lại, nghe nói đổ nghiệp cứ tin suông rồi hoảng sợ không tu nữa, là sai lầm.
Lại có nhiều Phật tử quan niệm rằng đi chùa Quy Y biết tu rồi, thì kể từ đây về sau cuộc sống sẽ bình an không có gì trở ngại. Tu là phải hanh thông mọi việc, nếu có trục trặc thì thối chí nản lòng không tu. Chúng ta nhớ, tu là bỏ ác làm lành, thì ở trong đời nếu có tai nạn xảy ra, biết đó là Nghiệp quá khứ còn rơi rớt lại, không sợ hãi, không thối chí, vững lòng tin mà tiến tu không thối chuyển.
Đừng nghĩ tu là mọi Nghiệp xấu sạch hết, mọi việc xảy ra đều như ý.
Chính Đức Phật là người tu hành công đức viên mãn, thế mà Ngài còn gặp những cái khó khăn nguy hiểm. Có lần Ngài đi giáo hóa ở một làng Bà La Môn, gia đình nọ giỏi về tướng số, sanh được một người con gái rất đẹp. Ông Bà La Môn này muốn gả con gái ông cho người có đủ ba mươi hai tướng tốt, nhưng tìm mãi chưa được. Bỗng một hôm tình cờ ông gặp Phật đang đi giáo hóa, ông mừng quá chạy về nhà kêu vợ ra xem. Bà ra thấy Phật rất hài lòng, đúng là đủ ba mươi hai tướng tốt, bà bèn ngỏ ý gả con gái cho Ngài.
Phật nói “Đối với bà thì con gái bà đẹp, song đối với ta đó là một dãy da hôi thối, tất cả trong thân nàng đều là bất tịnh”. Nghe Phật đáp, bà buồn, trở về nhà thuật lại câu chuyện cho con gái nghe. Cô tự ái nổi giận, ôm lòng thù oán thề rằng sẽ trả thù Phật.
Sau cô được làm hoàng hậu của một nước, bấy giờ Phật đến giáo hóa ở xứ đó, hoàng hậu bèn tập hợp du đãng chặn đường Phật để mắng chửi. Tôn Giả A Nan đi theo Phật, thấy du đãng vây mắng thậm tệ, ngài không chịu nổi, mới nói:
– Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn đi nước khác giáo hóa.
Phật hỏi:
– Đi đâu?
A Nan thưa:
– Thế Tôn đi nước nào cũng được, vì ở nước này cứ bị người vây chửi, con không cam chịu được.
Phật hỏi:
– Giả sử đi tới chỗ khác bị người ta chửi nữa thì A Nan tính sao?
A Nan thưa:
– Nếu tới đó mà bị chửi nữa thì chúng ta về nước Xá Vệ, Ma Kiệt Đà… chỗ mà Thế Tôn có nhiều đệ tử ở đó giáo hóa.
Phật hỏi:
– Nếu là thầy thuốc giỏi, A Nan có nên đề bảng: “Tôi chỉ trị những bệnh nhẹ, không trị những bịnh nặng” chăng?
A Nan thưa:
– Bạch Thế Tôn, không được, thầy thuốc giỏi phải trị bệnh nặng mới cứu được nhiều người.
Phật nói:
– Cũng vậy, dân ở đây họ nhiều mê muội như người bệnh nặng, nên gặp ta họ chửi. Thôi, thong thả, để ta giáo hóa họ, vì họ cần ta.
Du đãng tiếp tục chửi Phật.
A Nan nói:
– Họ cứ chửi Thế Tôn hoài, làm sao giáo hóa được?
– Chừng nào họ không nghe lời nói của ta thì ta đi.
Nghe Phật trả lời A Nan như vậy, du đãng nói:
– Thôi, Cù Đàm ở đây giáo hóa, chúng tôi sẽ nghe lời Ngài dạy.
Từ đó Phật nói pháp giáo hóa với họ.
Quý vị thấy, Phật mà còn bị người chửi mắng huống là chúng ta. Nhưng điều quan trọng là Tôn Giả A Nan cũng như chúng ta còn tâm phàm, nên nghe chửi không chịu được. Còn Phật đã giác ngộ tiếng chửi đối với Ngài như gió thoảng ngoài tai. Ngài không động tâm, nên thương họ là những người mê muội bệnh nặng, nên nói pháp cứu chữa.
Cũng vậy, Chúng ta khi phát tâm tu, nếu gặp người làm khó không nên buồn giận mà phải quán khởi lòng thương và cảm hóa họ. Nhất là những Phật tử có gia đình mà biết tu, hoặc bị chồng hay vợ, hay con làm khó dễ, đó là cơ hội tốt để mình tu, chớ buồn giận và đừng cho rằng bạn mình con mình phá rối không cho mình tu. Mà nên xét nghĩ thương bạn thương con, vì chưa hiểu đạo còn mờ tối nên cần sự cảm hóa của mình.
Thế nên, tất cả mọi khó khăn, những lời xúc não, nếu chúng ta biết tu, tâm sáng suốt hóa giải tất cả thì được an vui.
Một lần khác Phật đi giáo hóa vùng Bà La Môn, các tu sĩ Bà La Môn thấy đệ tử của mình theo Phật nhiều quá, nên ra đón đường Phật chửi. Phật vẫn thong thả đi, họ đi theo sau chửi. Thấy Phật thản nhiên làm thinh, họ tức, chận Phật lại hỏi:
– Cù Đàm có điếc không?
– Ta không điếc.
– Ngài không điếc tại sao không nghe tôi chửi?
– Này Bà La Môn, nếu nhà ông có đám tiệc, thân nhân tới dự, mãn tiệc họ ra về, ông lấy quà tặng, họ không nhận thì quà ấy về ai?
– Quà ấy về tôi chứ ai.
– Cũng vậy, ông chửi ta, ta không nhận thì thôi.
Người kêu tên Phật chửi mà Ngài không nhận. Còn chúng ta, những lời nói bóng nói gió ở đâu đâu cũng lắng nghe để buồn để giận. Như vậy mới thấy những lời cuồng dại của chúng sanh Ngài không chấp không buồn. Còn chúng ta do si mê, chỉ một lời nói nặng, nói hơn, ôm ấp mãi trong lòng, vì vậy mà khổ đau triền miên. Chúng ta tu là tập theo gương của Phật, mọi tật xấu của mình phải bỏ, những hành động lời nói không tốt của người đừng quan tâm, như thế mới được an vui.
Trong kinh Phật ví dụ người ác mắng chửi người thiện, người thiện không nhận lời mắng chửi đó. Người ác giống như người ngửa mặt lên trời phun nước bọt, nước bọt không tới trời mà rơi xuống mặt người phun.
Thế nên, có thọ nhận mới dính mắc khổ đau, không thọ nhận thì an vui hạnh phúc. Từ đây về sau, quý vị có ai nghe ai nói gì về mình dù tốt hay xấu, chớ nên thọ nhận thì sẽ được an vui.
Đa số chúng ta có cái tật nghe người nói không tốt về mình qua miệng người thứ hai thứ ba, thì tìm phăng ra manh mối để thọ nhận rồi nổi sân si phiền não, đó là kẻ khờ không phải người trí.
Tuy có chướng duyên bên ngoài mà chúng ta biết giải không thọ nhận đó là tu. Không phải tu là cầu an suông, mà phải có người thử thách để có dịp coi lại mình đã làm chủ được mình chưa. Nếu còn buồn giận vì một vài lý do bất như ý bên ngoài đó là tu chưa tiến.
Tinh thần nhân quả của đạo Phật không phải gây nhân nào chịu quả ấy trọn vẹn, ngoại trừ người không biết tu thì nhân quả không sai khác. Còn với người biết tu thì nhân quả biến chuyển theo công phu tu hành cao thấp mà có sai khác. Tu là chuyển Nghiệp giảm hết phiền não khổ đau để được an vui hạnh phúc, đó là tu đúng theo lời Phật dạy. Nếu tu sai thì không chuyển được nghiệp nên phiền lụy cứ dai dẳng khổ đau không đứt trừ, lại còn thối chí tu tập, không được lợi ích gì cả. Tôi mong rằng quý Phật tử sau khi nghe pháp nên nghiệm xét ứng dụng tu hành để trên đường tu mỗi ngày mỗi tiến cho hết khổ được vui.
Trích sách “HOA VÔ ƯU 3” – HT. Thiền Sư Thích Thanh Từ